Tìm hiều sơ qua về ngôn ngữNhật Bản
Sưu tầm: Trung tâm Nhật ngữ SOFL.
Ngoàichữ Hán, trong tiếng Nhật có 2 loại chữ khác là hiragana và katakana. 2 loại chữkana này đều là chữ phiên âm do người Nhật phát minh ra. Ngày xưa, người Nhậtkhông có chữ viết riêng nên ban đầu mượn âm chữ Hán để ghi chép câu nói củamình và soạn thảo văn bản. Sau đó, trong thời Heian (794-1185), người Nhật dựatrên chữ Hán tạo thành 2 loại chữ kana để ghi chép câu nói. Đó chính làhiragana và katakana. Hiragana vốn là chữ Hán viết giản lược còn katakana là mộtphần của chữ Hán tạo thành. Katakana dùng để phiên âm các chữ có nguồn gốc nướcngoài. Có thể nói, những chữ viết của tiếng Nhật đều xuất phát từ chữ Hán.
Bên cạnhđó, người Nhật sử dụng các từ vựng của Trung Quốc để làm cho tiếng Nhật phongphú hơn, như “gakusei” (học sinh), “seikatsu” (sinh hoạt). Cách đọc của những từmượn như trên là On-yomi. On-yomi của 1 chữ cũng có nhiều cách đọc. Ví dụ, chữ“hành” có cách đọc On-yomi là “ko”, “gyo”, “an”. Điều này liên quan đến lịch sửgiao lưu văn hóa giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Nói cách khác, các cách đọcOn-yomi phản ánh cách đọc tiếng Trung Quốc của từng thời đại và địa điểm giaolưu giữa 2 nước. Trong On-yomi có 4 nhóm là Ngô âm, Hán âm, Đường âm và Tốngâm. Ngô âm là cách đọc theo âm Hán của vùng nước Ngô cổ đại, tức vùng hạ lưusông Trường Giang. Hán âm là cách đọc theo người thủ đô Trường An trong thời đạinhà Đường. Vào thời Đường, tức thời đại Nara và Heian của Nhật Bản, nhiều nhàsư, lưu học sinh của Nhật sang Trường An để học hỏi văn hóa tiên tiến của TrungQuốc. Và cùng với nhiều cuốn sách, cách đọc chữ Hán của thời kỳ này được đưavào NB. Cách đọc Hán âm cũng được gọi là “Chính âm”. Đường âm là những cách đọcđược đưa vào Nhật từ các thời đại nhà Tống, Nguyên, Minh, Thanh của Trung Quốc,còn Tống âm là những cách đọc do các nhà sư trong thời đại Kamakura (thế kỷ12-14) của Nhật Bản đưa về cùng với các quyển kinh Phật giáo. Đối với chữ“hành”, đọc theo Ngô âm là “gyo”, Hán âm là “ko”, Đường âm là “an”.
Trongthời Edo đã có một số học giả đề cập tới những đặc trưng kể trên của tiếng Nhật,nhưng khi đó chưa đạt nhiều thành quả quan trọng. Sau khi ngành ngôn ngữ học củaphương Tây được đưa vào Nhật Bản, các nhà nghiên cứu áp dụng môn học này vào việcphân tích những đặc trưng của tiếng Nhật, để tìm hiểu xem tiếng Nhật thuộc hệnào trong số các hệ thống ngôn ngữ trên thế giới.
Cần phảinói, về vấn đề này chưa có kết luận thống nhất trong ngành nghiên cứu tiếng Nhật.Có nhiều học thuyết về nguồn gốc tiếng Nhật nhưng hai học thuyết được nhiều ngườiquan tâm nhất là:
(1) TiếngNhật thuộc nhóm thứ tiếng Ural-Altai, cùng với tiếng Triều Tiên, tiếng Mông Cổ,tiếng Ainu.
(2) TiếngNhật chịu ảnh hưởng của các thứ tiếng miền nam nhiều hơn, là các thứ tiếng thuộcnhóm Autronesia như tiếng Malaysia, Indonesia, Philippines hoặc nhóm thứ tiếngMiến Điện-Tây Tạng.
Tóm lại,tuy không phải là kết luận cuối cùng nhưng người ta cho rằng, khoảng5.000-10.000 năm trước, tại vùng đông bắc lục địa Châu Á đã hình thành một thứtiếng tổ tiên của tiếng Nhật, liên quan đến nhóm tiếng Altai và ngữ pháp tiếngNhật hiện nay. Sau đó, thứ tiếng này bắt đầu được chia thành 3 thứ tiếng kháclà tiếng Nhật, tiếng Triều Tiên và tiếng Ainu. Và khoảng 3.000-4.000 năm trước,các từ vựng cơ bản được đưa sang Nhật Bản từ các thứ tiếng miền nam nhưIndonesia, Khơme, v.v… Cách đây khoảng 2.000-2.500 năm, các từ vựng như số từvà từ chỉ các bộ phận của cơ thể con người, thực vật được đưa sang Nhật Bản từkhu vực miền nam Trung Quốc. Rồi sau công nguyên, các từ vựng chữ Hán được đưatừ Trung Quốc vào Nhật Bản.
Một đặcđiểm trong tiếng Nhật không thể không đề cập đến, là có rất nhiều từ mượn. Từmượn của Trung Quốc được sử dụng thường xuyên trong cuộc sống, số lượng quá nhiềuvà lại được viết bằng chữ Hán, nên gần như không cảm thấy rằng chúng có nguồn gốctừ tiếng nước ngoài. Ngày nay chính người Nhật cũng gần như không thể nhận ranhững từ mượn nước ngoài đầu tiên (nhiều từ là của tiếng Sanskrit, Ainu hoặcTriều Tiên) vì hầu hết được viết bằng chữ Hán chứ không phải bằng hệ katakana.Nhiều từ du nhập từ lâu trong lịch sử Nhật Bản và thường là những từ liên quanđến cuộc sống hàng ngày của người Nhật. Nhiều từ được mượn từ tiếng Bồ Đào Nha,Tây Ban Nha, Hà Lan từ thế kỷ 16-17.
Cuối thờikỳ Edo (1603-1868), các từ tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Nga bắt đầu xuất hiện.Hiện nay, so với các từ du nhập vào Nhật Bản sau này, số từ mượn của tiếng Anhnhiều hơn tất cả các thứ tiếng khác, cả các từ khoa học lẫn từ thường dùngtrong cuộc sống. Ngoài ra còn có các từ mượn tiếng Đức và tiếng Italia.
Số lượngchữ Hán hiện sử dụng ở Nhật Bản được giới hạn chỉ còn một phần trăm rất nhỏtrong số khoảng 40.000 đến 50.000 chữ Hán mà chúng ta thấy trong các cuốn từ điểnđồ sộ. Năm 1946, bộ giáo dục Nhật hạn chế số lượng chữ Hán dùng trong các văn bảnchính thức là 1.850 chữ. Năm 1981, số lượng Hán tự thường dụng được quy định là1.945 chữ.
Cùng trungtâm Nhật ngữ SOFL tìm hiểu thứ ngôn ngữ thú vị này nhé !!!
Tìm hiểuthêm tại : TrungTâm Nhật Ngữ SOFL.
Địa chỉ: Cơ sở 1 : số 365 – phố Vọng – Đồng Tâm – Hai Bà Trưng – Hà Nội
Cơ sở2 : số 44 Lê Đức Thọ kéo dài – Mai Dịch – Cầu Giấy – Hà Nội
Cơ sở3 : số 54 Ngụy Như Kon Tum – Nhân Chính – Thanh Xuân – Hà Nội.
Hotline:0462921082–0964661288.
|