II - NGỮ PHÁP Ngữ pháp bài này là một ngữ pháp cực kì cực kì quan trọng mà nếu không hiểu nó, các bạn sẽ rất khó khăn khi học lên cao và lúng túng trong việc giao tiếp với người Nhật.
Xem thêm Lớp học tiếng Nhật sắp khai giảng!! [url=http://tiengnhatcoban.edu.vn/hoc-cach-giao-tiep-hang-ngay-bang-tieng-nhat.html]http://tiengnhatcoban.edu.vn/hoc-cach-giao-tiep-hang-ngay-bang-tieng-nhat.html[/url]
ếu xét riêng về mặt ngôn ngữ thì tiếng Nhật sử dụng rất nhiều từ Hán do có sự giao lưu văn hoá giữa hai nước Nhật và Trung Hoa. Hơn thế nữa chữ mềm (Hiragana -
bình giả danh) và chữ cứng (Katakana - phiến giả danh) lại được tạo ra dựa trên chữ Hán. Tiếng Nhật hiện nay được tạo ra nhờ chữ Hán và chữ Kana (giả danh).
Hai thứ tiếng này giống nhau gần như hoàn toàn về cách sắp xếp chủ ngữ (shugo) - bổ ngữ (mokutekigo) - vị ngữ (jutsugo). Tuy nhiên không có bằng chứng xác đáng
nào chứng minh được rằng hai thứ tiếng này có chung một nguồn gốc. Có rất nhiều giả thiết về nguồn gốc của tiếng Nhật: Từ nhóm ngôn nữ Ural-Altaic, từ nhóm
ngôn ngữ Malayo-Polynesian ở phía nam, từ nhóm ngôn ngữ Ấn Độ-Tây Tạng, từ nhóm ngôn ngữ Tamil... Tuy nhiên, ngôn ngữ gần với tiếng Nhật nhất là tiếng Triều
Tiên. Vậy tiếng Nhật bắt nguồn từ đâu ?
Xem thêm Lớp học tiếng Nhật sắp khai giảng!! http://tiengnhatcoban.edu.vn/cach-hoc-tieng-nhat
Đặc trưng của tiếng Nhật là gì?
Trước hết phải nói đến đặc điểm phát âm. Trừ N (ん) ra, một âm được biểu hiện chỉ bằng nguyên âm hay cặp phụ âm cộng nguyên âm.
Ví dụ:
Từ watakushi (Tôi) được tạo bởi cằp wa, cặp ta, cặp ku và cặp shi -> wa-ta-ku-shi
Từ tokei (Đồng hồ) được tạo bởi một cặp to, cặp ke và nguyên âm i -> to-ke-i
Trọng âm thì không phân biệt mạnh-yếu như tiếng Anh mà phân biệt cao-thấp. Ví dụ khi đọc YOKOHAMA thì YO đọc với giọng cao còn KOHAMA đọc với giọng thấp
hơn. Tuy nhiên không phải trọng âm là giống nhau trong cả nước mà khác nhau từ đông Nhật Bản sang tây Nhật Bản, từ vùng này qua vùng khác. Từ vựng của tiếng
Nhật gồm có từ thuần Nhật, từ Hán Nhật và từ mượn từ tiếng nước ngoài viết bằng Katakana (phiến giả danh, chữ cứng).
Cấu tạo của một câu văn là như sau:
1) Chủ ngữ + đối tượng + động từ
Ví dụ: Watashi ha gohan wo tabeta = Tôi cơm ăn
2) Chủ ngữ + bổ ngữ + động từ.
Ví dụ: Kare wa daigakusei desu = Cậu ấy sinh viên là
Chỉ cần chú ý rằng động từ luôn đứng cuối câu và từ bổ nghĩa luôn đứng trước từ được bổ nghĩa thì có thể thay đổi vị trí các từ trong câu khá tự do. Nếu so sánh với
tiếng Anh thì tiếng Nhật rất phát triển thể kính ngữ giống như trong tiếng Hàn Quốc. Trong đàm thoại thì từ nam giới và từ nữ giới cũng được phân biệt rõ ràng.
Chữ mềm và chữ cứng được tạo ra như thế nào?
Chữ Kana được tạo ra bằng cách đơn giản hoá chữHán sau khi đã loại bỏ nghĩa của chữ Hán đó, chỉ giữ lại âm. Tác phẩm Vạn diệp tập (Man'yoshu) được biên soạn vào
khoảng giữa thế kỷ thứ 8 bao gồm khoảng 4500 câu ca, toàn bộ được viết bằng chữ Hán (Kanji) theo kiểu ateji (Hoạt tự - chỉ dùng âm, không quan tâm đến nghĩa của
chữ đó để biểu thị một từ). Sau đó Kana được hoàn thiện dần dần và vào cuối thế kỷ thứ 9, bộ chữ mềm Hiragana được hoàn thành. Chữ cứng Katakana là bản đơn
giản hoá hơn nữa của Hiragana. Katakana cũng được tạo ra cùng thời với Hiragana. Ngay từ đầu thế kỷ thứ 9 đã có nhiều văn tự viết bằng Katakana.
Chữ mềm và chữ cứng được dùng như thế nào?
Trong tiếng Nhật tồn tại đồng thời 3 loại ký tự: Chữ Hán (Kanji), chữ mềm (Hiragana) và chữ cứng (Katakana). Chữ Hán là chữ tượng hình du nhập vào từ Trung Quốc,
chữ mềm và chữ cứng là bản đơn giản hoá của chữ Hán để biểu thị âm. Hầu hết danh từ được viết bằng chữ Hán (Từ Hán-Nhật), động từ và tính từ thì được viết hỗn
hợp giữa chữ Hán và chữ mềm. Trợ từ và trợ động từ được viết bằng chữ mềm, từ ngoại lai (Anh, Đức, Pháp, Bồ Đào Nha, Hà Lan ...) được viết bằng chữ cứng. Do
tiếg Nhật có nhiều từ đồng âm khác nghĩa nên viết bằng chữ Hán (nhìn chữ đoán được ý) sẽ dễ hiểu hơn.
Phải học bao nhiêu chữ Hán thì đủ?
Phần lớn trong số tổng cộng khoảng 50 nghìn chữ Hán đã được đưa vào tiếng Nhật. Bên cạnh đó còn có những chữ Hán do người Nhật tạo ra. Ví dụ chữ touge 峠 được
ghép bởi 3 chữ: sơn, thượng, hạ có nghĩa là đèo. Tuy nhiên trong cuộc sống hàng ngày không cần thiết phải nhớ nhiều chữ Hán đến như thế. Hiện nay mỗi người nên
nhớ khoảng 1945 chữ trong bảng thường dùng Hán tự. Bảng này do bộ giáo dục Nhật Bản qui định và đã được Việt hoá bởi tác giả Đỗ Thông Minh. Phần lớn người Việt
Nam ở Nhật dùng bảng này như là một công cụ không thể thiếu khi học tiếng Nhật.
Nguồn tham khảo : http://tiengnhatcoban.edu.vn
- Mọi thông tin chi tiết mời các bạn liên hệ:
TRUNG TÂM TIẾNG NHẬT SOFL
Địa chỉ: Số 365 - Phố vọng - Đồng tâm -Hai Bà Trưng - Hà Nội
Email: nhatngusofl@gmail.com
Điện thoại: (84-4) 62 921 082 Hoặc: (84-4) 0964 66 12 88
|