Hỏi:
Tôi nghe nói, cây bời lời nhớt đắp chữa ung nhọt, thương tổn nhiễm trùng rất hay. nhu cầu "các thầy thuốc hậu quả của thoái hóa đốt sống cổ" cho biết: Cây chứa hình dạng thế nào? Thường mọc ở đâu? cách dùng để chữa trị thế nào?
Lê Danh Thắng, Thái Nguyên
Giải đáp băn khoăn của những chuyên gia viêm khớp nhiểm khuẩn :
Bời lời nhớt
Cây bời lời nhớt còn gọi là "bời lời dầu", "mò nhớt", "lá nhớt mèo", "lá lưỡi mèo", "lá màn dê", "lá thấm mủ", "lá mò nhớt", "sàn thụ", "sàn cảo thụ", "tào cả cường", ... tên khoa học là Litsea glutinosa C. B. Rob. (Litsea sebifera Pers.); thuộc họ Long não (Lauraceae).
Cây bời lời nhớt có nguy cơ mọc cao đến 10m. Vỏ thân nâu, không mùi, không vị, trong mang chất nhớt, cành trưởng thành hình trụ, nhẵn, cành non chứa cạnh, lớn lông. Lá mọc so le, thường mọc thành cụm ở đầu cành, hơi dai, màu xanh lục đậm, mặt trên bóng, mặt dưới lây lông, kích thước rất thay đổi, dài 7-20cm, rộng 4-10cm, hình bầu dục hay thuôn dài, phía đáy lá tròn hoặc nhọn, đầu nhọn hay tù; cuống lá lây lông, dài 1,5-5cm. Hoa tụ từng 3-6 thành tán nhỏ trên 1 cuống chung dài 1-3cm mắc lông; cuống của mỗi hoa dài 2-3mm. quả hình nhu cầu to qua hạt đậu, màu đen, đính trên cuống phình ra. Mùa trái cây vào tháng 7-8. hoàn toàn một vài bộ phận của cây, như lá, vỏ, cao nhất ở vỏ thân lây hứng một chất nhầy dính, dân gian thường áp dụng để dính bột giấy hay hương thắp.
Ở nước ta, cây mọc hoang khắp nơi. lớn nhất ở rất nhiều tỉnh miền trung như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Cũng thường gặp mọc một vài tỉnh phía Bắc như Vĩnh Phúc, Hà Giang, Tuyên Quang, Quảng Ninh. Còn mọc ở miền nam giới Trung Quốc, Ấn mức độ, Malaixia, Inđônêxya, Campuchia. có thể trồng vì hạt hay giâm cành. sau đây 5-6 năm cây đầu tiên bị trái cây.
Để làm thuốc chữa trị, có nguy cơ áp dụng lá, vỏ thân, rễ, vỏ rễ và hoa quả.
Theo Đông y: Bời lời nhớt nhiễm vị ngọt, đắng, chát; tính mát. chứa tác dụng thanh thấp nhiệt, tiêu thũng độc, chỉ huyết (cầm máu), chỉ thống (giảm đau). Rễ có nguy cơ sắc uống chữa ỉa chảy, đòn ngã tổn thương, đi giải tháo đường, quai mang, ... Vỏ, lá dùng đắp ngoài chữa đinh nhọt, quai có, nhiễm trùng tuyến vú mới phát, đòn ngã thương tích, ngoại thương xuất huyết.
Liều dùng: Ngày dùng 10-20g vỏ, dưới dạng bài thuốc sắc; sử dụng ngoài không kể liều lượng.
Một đội ngũ phương hướng sử dụng cụ thể:
(1) Chữa thương tổn, ung nhọt: Hái lá bời lời nhớt còn non, không có sâu, cắt thải cuống và sống lá, rửa sạch, thái nhỏ, giã nát, đắp lên vết thương đã tiêu diệt trùng rồi băng lại; hằng ngày rửa và thay thuốc 1 lần. sử dụng cho những vết thương mới hoặc đã nhiễm khuẩn, đều mắc tác dụng tích cực ("Một số kỹ năng về cấp cứu chiến thương và chữa rắn cắn do thuốc dân tộc").
(2) Chữa thiên đầu thống: dùng lá khô 16g, sắc nước uống trong ngày ("Những cây bài thuốc và vị thuốc Việt Nam").
(3) viêm tuyến vú mới phát: dùng lá bời lời giã nát đắp, sau đó dùng băng cố định lại ("Kinh nghiệm dân gian ở Trung Quốc").
Lưu ý tìm hiểu thêm: Trong lần cùng Dược sĩ Đào Kim Long chuyên gia y tế về chăm sóc bệnh nhân viêm khớp dạng thấp ra đảo Cát Bà (Hải Phòng), khi đứng bên một cây bời lời nhớt, mọc ở chân núi gần bãi biển, ông đã trình bày kỹ năng quý: Cây "lá cái" mà ông trồng trong vườn bài thuốc gia đình ở quê nhà, thường áp dụng để chữa các kiểu ung mụn độc ngoan cố, chữa hột xoài, hậu bối, búi trĩ loét, ... là cây cùng chi Litsea với bời lời nhớt. Lá cái cũng chứa chất nhớt như bời lời nhớt. Khi không lây lá cái, có thể áp dụng bời lời nhớt thay thế, ích lợi cũng tốt. Bạn nên chú ý khám phá thêm về ý kiến này.
Lương y HƯ ĐAN
|