Thời gian đăng: 18/8/2016 09:55:08
Từ xưa, Đông y đã biết được, việc sử dụng thuốc đối với thanh nữ đang mang thai phải rất thận trọng. Nếu không chăm chỉ, có thể dẫn tới một số hệ lụy rất xấu, như khiến hoạt động sinh lý của cơ thể người mẹ bị rối loạn; gây rong huyết; gây động thai hoặc sảy thai; khiến thai nhi bị teo lại, không chăm chỉ tăng trưởng được; thai bị chết lưu trong bụng mẹ; khiến cho thai nhi bị quái gở, ...
Phụ nữ mang thai thường mắc nhiều bệnh về xương khớp.
Xem thêm: đau nhức xương khớp khi mang thai
Nói theo cách khác, thuốc có thể gây tác hại trên 4 phương diện:
- Không hữu ích đối với cơ thể người mẹ;
- Không bổ ích đối với thai nhi;
- Không hữu ích đối với quá trình sinh sản;
- Không bổ ích đối với trẻ sơ sinh.
Sử dụng thuốc khinh suất đối với thiếu phụ đang mang thai, có thể gây được phép 1 số di chứng có hại lớn như vậy, cho nên trong "Đông dược học" có một nội dung mà mỗi người bác sỹ, cũng như Người nhiễm bệnh, cần bắt buộc nắm vững, gọi là "Dựng phụ dược kỵ"; còn gọi là "Nhẫm thân dược kỵ". "Dựng phụ", "nhẫm thân", đều là vài từ Hán Việt, chỉ người phụ nữ đang mang thai; "dược kỵ" là thuốc bắt buộc kiêng kỵ.
Để tiện lợi cho việc sử dụng thuốc trên lâm sàng, hiện tại thuốc bất lợi đối với thai phụ, thường được phân loại theo vài phương hướng như sau:
1. Phân loại theo công dụng của thuốc:
Nói thông thường, một vài vị thuốc có công dụng thuộc một số loại: "Hoạt huyết thông kinh", "phá khí hành trệ" (hành khí mạnh để tiêu ứ trệ), "nhuyễn kiên tán kết" (mềm vật rắn, tan khối tích), "công trục tuấn hạ" (tẩy, trục thủy mạnh), "hoạt lợi trọng trụy" (loại thuốc nhuận tràng, lợi tiểu có thể gây sảy thai, sa nội tạng), "tẩu soán khai khiếu" (phát tán, lây truyền tỏa nhanh, mạnh trong cơ thể), đều là các thứ buộc phải cấm kỵ Dường như mang thai.
Chi tiết là:
- Thuốc hoạt huyết thông kinh: Tam lăng, nga truật, hồng hoa, nhũ hương, ích dòng thảo.
- Thuốc phá khí hành trệ: Thanh so bì, chỉ thực, tân lang (hạt cau), đàn hương.
- Thuốc nhuyễn kiên tán kết: Miết giáp, bối chiếc, hạ khô thảo, bán hạ, thiên nam tinh.
- Thuốc công trục tuấn hạ: Thương lục, đình lịch, nguyên hoa, khiên ngưu tử (hạt bìm bìm), đại hoàng.
- Thuốc hoạt lợi trọng trụy: Tỳ ma tử (hạt thầu dầu), đông quỳ tử, du bạch bì, hoạt thạch, xa tiền tử (hạt mã đề), mộc thông, từ thạch, mông thạch.
- Thuốc tẩu soán khai khiếu: Xạ hương, băng phiến, tô hợp hương.
Xem thêm: benh gout uong gi ?
2. Phân loại theo đối tượng tác dụng:
Gây tác hại đối với người mẹ hoặc bào thai.
Trong đó đại bộ phận là một vài thứ thuốc gây tổn hại đối với cơ thể người mẹ.
- Thuốc gây tổn hại đối với cơ thể người mẹ, làm mất bản lãnh tiếp tục nuôi dưỡng thai nhi, khiến quá trình mang thai bị gián đoạn, bao gồm 1 vài vị: Hồng hoa, ý dĩ nhân, nguyên hoa, tam lăng, thông thảo, thường sơn, hoạt thạch, qua lâu căn, đại hoàng.
- Thuốc gây tổn hại trực tiếp đến bào thai, cản trở quá trình phát dục của thai nhi, bao gồm: Bán hạ (làm thai bị tổn thương), cha đậu (làm nát thai), ngô thù du (khiến thai bị lây truyền độc).
3. Phân loại theo hậu quả:
Thuốc có thể gây nên 1 số tác động tiêu cực, như sát thai (làm chết thai nhi), đọa thai (gây trụy thai), hoạt thai (gây động thai), độc thai (khiến thai bị lây độc).
1 số vị thuốc cụ thể:
- Thuốc sát thai: bố đậu, thủy ngân.
- Thuốc đọa thai: Nguyên hoa, cam toại, đại kích, khiên ngưu (hạt bìm bìm), vương bất lưu hành, xuyên sơn giáp, bổ cốt chi, lưu hoàng, đào nhân.
- Thuốc hoạt thai: Xa tiền tử (hạt mã đề), đông quỳ tử, hòe thực, trạch tả.
- Thuốc gây độc thai: Uất lý nhân, thanh cao, tế tân, tân lang.
4. Phân theo cường độ:
- Thuốc cấm dùng, bao gồm 1 số vị thuốc có độc tính tương đối mạnh và có dược tính mãnh liệt, có thể khiến cơ thể người mẹ và bào thai thương tổn nguy hại, khiến thai bị chết hoặc sảy thai, như thủy ngân, phê sương, thân phụ đậu, đại kích, thương lục, lê lô, ô đầu, tích phấn, ...
- Thuốc buộc phải thận trọng, bao gồm vài vị thuốc có độc tính tương đối thấp và có dược tính tương đối hoãn hòa. Bao gồm vài vị thuốc trong loại thuốc hoạt huyết hành khí, công hạ lợi thủy, nhuyễn kiên tán kết, tẩu soán trọng trụy, như hồng hoa, đào nhân, tân lang, thanh bì, đại hoàng, trạch tả, cái lệ, khổ sâm, tế tân, ...
- Đối với loại thuốc buộc phải thận trọng khi sử dụng, nên theo đúng phương châm dùng thuốc hữu hiệu và hợp với nhau. chi tiết, nên căn cứ vào căn bệnh tình mà cân nhắc xem có cần yêu cầu ứng dụng hay không. Nếu bắt buộc ứng dụng, cần để ý "biện chứng thi trị" thật chuẩn xác, ứng dụng thuốc đúng liều lượng và đúng cách giải quyết (thời gian sử dụng). 1 số vị thuốc yêu cầu được bào chế và phối ngũ (phối hợp vài vị thuốc trong thang thuốc) một giải pháp thích đáng, để có thể giảm thiểu tối đa 1 vài tác hại đối với thai phụ và thai nhi. Bên cạnh đó, để ngăn chặn phát sinh sự cố, trừ phi làm biếng dùng lười được, còn nói bình thường nên khống chế áp dụng vài vị thuốc mà người xưa tìm hiểu là buộc phải thận trọng. Còn đối với một vài vị thuốc thuộc loại cấm vận dụng, thì tuyệt đối ít được ứng dụng.
Trên đây mới chỉ liệt kê 1 số vị thuốc tương đối thông dụng. thời xưa, trong sách "bạn dạng thảo cương mục" của Lý Thời Trân đã đề cập đến 247 vị thuốc bắt buộc dùng thận trọng hoặc cấm dùng khi đang mang thai. Hiện tại, khoa học còn xác định thêm lười lười 1 vài vị thuốc mới, bất lợi hoặc ác hại đối với thai phụ. thành ra, khi đang mang thai, nếu buộc phải sử dụng Đông dược để phục hồi hoặc làm tăng sức khoẻ hoặc thuyên giảm loại bệnh tật, nhất thiết nên có sự Trao đổi và chỉ bảo cụ thể của người làm nghề chữa bệnh Đông y.
|
|